Cuộc đời như giấc mộng

Với tốc độ phát triển quá nhanh của một xã hội công nghiệp, tôi nhìn thấy những dòng sông đang cạn dần và chết, những cánh đồng chen lẫn nhà máy đổ nước thải tự do, những bãi bồi đầy lò gạch và những người nông dân bất đắc dĩ trở thành thị dân…
Đặc thù văn hoá dân tộc đang bị thu hẹp thay thế bằng văn hoá toàn cầu, nông thôn cổ bị phá vỡ bằng những đô thị mới, và khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng lên… Trước sau gì thì làng xã truyền thống cũng tan rã, nhưng người nông dân sẽ ra sao và nền văn minh Việt sinh ra từ làng xã sẽ ra sao? Thẩm mỹ luôn gắn chặt với đời sống, nhưng chỉ cần tìm hiểu trước đây 20 năm thôi, người Việt sống, ăn ở, mặc… thế nào cũng đã rất khó khăn, chưa kể những sinh hoạt văn hoá. Từ cày cuốc, rổ rá, chén bát, đến trang phục, trang sức, xe cộ, đường sá, nhà cửa… cũng đã mất gần hết, có chăng chỉ còn trong bảo tàng. Với hai tác phẩm Nghệ thuật ngày thường, Văn minh vật chất của người Việt, và tham gia viết lời bình bộ phim tài liệu 24 tập Đi tìm trang phục Việt (TFS), tôi chuyển sang nghiên cứu xã hội rộng hơn, đồng thời gắn bó hoạt dộng nghệ thuật với nhiều mặt xã hội nói chung, để tìm ra những quy luật sống nhất định có thể xảy ra trong thời gian dài.

Họa sỹ, Nhà phê bình mỹ thuật – Phan Cẩm Thượng
Chuyện người nông dân trở thành thị dân là một chuyện lớn. Khi làng trở thành phố, người ta thường nhìn thấy mặt tốt của nó, nhà cửa to hơn, đường sá sạch sẽ hơn, nhưng ít ai quan tâm người nông dân sẽ làm gì khi không làm nông nghiệp hay làm ruộng? Các lề lối, đạo đức gia phong của làng bỗng dưng mất đi, họ trở thành dân “vô chính phủ”, chẳng cần biết luật giao thông, chẳng cần biết đến an toàn thực phẩm. Không một chuẩn bị nào cho người nông dân bước vào nền sản xuất và sinh hoạt mới là mặt dở khó chữa nhất của làn sóng đô thị hoá quá nhanh. Chính sự không chuẩn bị đó làm cho sự đổ vỡ diễn ra mau hơn. Cái lãi về kinh tế sẽ không bù lại được cái lỗ về môi trường, đạo đức nhân văn. Nông thôn Việt Nam luôn luôn là nơi phức tạp, đầy biến động, kể cả trong chùa. Đó là một bể dâu chìm nổi, không giản đơn như vẻ ngoài bình yên của nó. Chẳng ở đâu cọ xát với dân chủ, đạo đức, lối sống, tập tục, quan lại tham nhũng như ở nông thôn.
    Người trí thức phải tình nguyện đi về nông thôn, lăn lộn rất nhiều với nông dân mới có thể giúp nông dân một cách hữu dụng cả về kinh tế và nghệ thuật, từ nghệ thuật xây nhà, gìn giữ môi trường, đến gìn giữ những di tích cổ. Nhà nước cũng dành nhiều công trình khoa học thiên về kinh tế, chứ ít đầu tư những công trình về khoa học nhân văn. Nói chung, trí thức Việt Nam có thể cảm thấy tiếng nói của mình không hiệu quả gì, nên không nói, hoặc nói bằng cách khác. Cách nói của tôi là nhìn những vấn đề xã hội bằng nghệ thuật. Xã hội bất ổn bởi quá nhiều vấn đề, nhưng có thể giải quyết từng phần, mà quan trọng nhất là xây dựng ý thức cho từng người dân để gìn giữ môi trường sống và môi trường văn hoá, có như vậy dân tộc mới lành mạnh. Nếu người dân coi chuyện đút lót là đương nhiên, nếu quan chức coi chuyện vơ vét của dân là bình thường, sẽ tạo ra sức huỷ hoại vô cùng đáng sợ. Trong mỗi một con người phải có một chút tôn giáo để biết nhân quả, hiểu cuộc đời chỉ là tương đối, nếu không người ta sẽ lao theo vật chất không biết dừng. Có tình trạng thi cử thì đút lót, làm ăn thì tham nhũng, văn hoá thì chạy theo bề nổi, không thực chất, muốn xem bức tranh đẹp cũng chẳng biết xem ở đâu. Biết bao nhiêu người có trình độ mà không phải là giáo sư tiến sĩ, và ngược lại, biết bao giáo sư tiến sĩ không có trình độ. Hai “khu vực” ấy càng không chơi được với nhau thì những giá trị thật càng không có khả năng lộ diện.
    Trong kinh tế thị trường, ai có thực nghề thì ít nhất cũng có cuộc sống trung bình. Tôi từng có rất nhiều tiền, nhưng nói chung là không có tiền. Tôi không nhận của ai một đồng nào nếu đó không phải là tiền mình làm ra. Là một trí thức, lo lắng, cống hiến cho xã hội mới khó, còn cuộc sống cá nhân thì vui buồn cũng chỉ thoảng qua thôi…Chỉ buồn thôi, chứ không tới mức khủng hoảng. Tôi học Nho giáo, học đạo Phật từ bé nên đã xây dựng cho mình một quan niệm sống rõ ràng, coi cuộc đời như giấc mộng. Hoặc mộng lành, hoặc mộng không lành, có gì mà hốt hoảng. Chỉ có một nỗi buồn lớn nhất là con đường phát triển của dân tộc hiện tại đã phá huỷ môi trường, văn hoá tinh thần mạnh quá. Dòng chảy theo đuổi kiếm tiền cũng mạnh quá, ít ai quan tâm đến việc thưởng thức nghệ thuật, làm giàu có cho tâm hồn. Chẳng lẽ con người sống nghèo nàn đến thế sao. Tôi từng xem chương trình giới thiệu thành phố Thành Đô bên Trung Quốc, ở đây họ chủ trương sống ít tiền để hạnh phúc. Kiếm tiền vừa phải, xây dựng ít, dành thời gian đi xem phim, học nhảy, đi hát. Đây cũng là thành phố có truyền thống về đạo Lão, tu tiên. Cả thành phố đã trải qua một trận động đất, bao nhiêu tích cóp tan tành trong chốc lát, nên họ hiểu hơn ai hết rằng nếu không biết thưởng thức cuộc sống ngay lúc này mà chỉ biết kiếm tiền thôi thì chết đi cũng chẳng biết cuộc đời hay dở thế nào. Học cái gì mình thích sẽ giỏi, sẽ sống được. Muốn thế, phải dũng cảm theo đuổi tới cùng. Ngay từ nhỏ tôi đã thích nghệ thuật, mê chữ Hán, mà cái ấy nhà trường không dạy. Đến trường môn nào tôi cũng mấp mé trượt, chẳng học được gì, thế là tôi quyết định tự học. Tôi không học vẽ theo kiểu nhà trường, cũng không học vẽ theo kiểu Tây phương, mà học theo lối vẽ dân gian, tranh thờ, các phù điêu đình làng, tượng Phật… Về kỹ thuật, tôi ảnh hưởng trường phái Phục hưng, hội hoạ lập thể và Mêhicô, nhưng phẩm chất, tình cảm thì hoàn toàn phương Đông. Nhà có chín anh em, tôi đã trải qua những ngày dài bị đói khủng khiếp, chỉ có một nỗi ám ảnh là làm thế nào qua được những cơn đói. Muốn bình tâm lại, phải rèn luyện mới có được, vì cuộc sống lúc nào cũng như ngựa chạy. Thiếu một tí cũng được, vẽ tranh, đi du ngoạn, đọc sách để hiểu biết thêm cần thiết với tôi hơn. Vả lại tôi sống cũng giản đơn, không uống rượu, không ăn nhiều, quần áo có gì mặc nấy, chấp nhận sống thế. Nhưng tôi rèn luyện sức khoẻ hàng ngày, để không bị ốm, không phải đi bệnh viện, vì tôi chẳng có bảo hiểm y tế! Sống vui vẻ, khoẻ mạnh, nhiều nhu cầu về phía văn hoá nghệ thuật, tinh thần mạnh thì tất cả cái khác cũng tốt lên theo. Viết, vẽ, dạy học là ba công việc mà tôi làm đều đặn, thường xuyên, để sống được, và để theo đuổi nghệ thuật.
    Mỗi người chúng ta sống giỏi lắm được 100 năm. Tìm về những di tích cổ, hiểu biết quá khứ, có một nhìn nhận xa hơn về tương lai chính là khả năng sống quá cuộc đời thực của mình. Càng hiểu biết sâu càng làm cho đời sống tinh thần viễn vọng hơn. Đó cũng là cả một quá trình học, từ chỗ thấy nó đèm đẹp đến lúc đọc được nó. Mỗi chiếc bình cổ là cả một câu chuyện, một tâm tình, giúp ta gần gũi với con người của hàng trăm, hàng ngàn năm trước. Một ngôi chùa là một câu chuyện khác nhau, phải sống ở đó đủ lâu để hiểu nó, mới có khả năng gìn giữ nó. Chùa Bút Tháp là nơi gắn với số phận tôi, nơi tôi chia sẻ nhiều nhất, cũng là quê ngoại của tôi. Đây là nơi tôi ở lâu nhất, giống như trở về nhà. Nhưng cũng đau lắm vì nhiều nơi không giữ được di tích, hàng trăm ngôi chùa bị phá đi, sơn phết lại. Có lẽ do tôi ở trong chùa quá lâu, nhưng như thế không có nghĩa là tôi đi tu, tôi đến chùa để biết, để nhắc nhở mình cuộc sống là vô thường, sau đó là đi về, chứ đó không phải là nơi chốn của mình, không phải cái đích mình đi đến. Cuộc sống có gì thì mình sống như thế, không đi trốn. Tôi chỉ xem tranh, trông mặt, không cần phải gần gũi họ nhiều, như ông Nguyễn Sáng, cả đời tôi mới gặp vài chục phút, để viết Em bé da đen. Đọc được người khác khó lắm, tôi chỉ đọc được trên phương diện nghệ thuật, còn chuyện đời tư thì chịu. Nghệ thuật không thể nói dối được, càng nói dối càng lộ diện. Tôi không có nhiều thời gian dành cho bạn, nhà tôi cũng ít ai đến chơi. Thực ra cuộc sống cũng chẳng phức tạp như mình hay suy nghĩ, người ta phí phạm nhiều thời gian vào những chuyện không đâu. Tôi chỉ cố gắng làm một số việc cho ra hồn, còn thì đi du ngoạn, ngắm nhìn cho sung sướng. Đi để hiểu được những dân tộc khác, những nền văn hoá có quan hệ với văn hoá mình. Tôi đi Mỹ nhiều lần, nước Mỹ là nơi phản chiếu nhiều điều của nhân loại, phải đi mới biết mình thiếu cái gì. Người Mỹ rất cẩn trọng, lao động chuyên cần, sáng tạo, học hành tự do, luật pháp nghiêm khắc. Đây cũng là đất nước số một về đầu tư nghiên cứu văn hoá toàn thế giới. Thế nhưng một người bạn Mỹ của tôi lại chọn Zimbabwe để cống hiến phần đời còn lại. Khi tôi hỏi bà cuộc sống ở đó có khó khăn lắm không, bà hỏi ngược lại tôi: “Anh tưởng ở Boston cuộc sống dễ dàng hơn à? Tôi không nghĩ nơi nào khó khăn hơn nơi nào. Người Việt Nam nghĩ gì về cuộc sống?” Tôi trả lời bà: “Khó khăn nhất không phải là thiếu tiền, cuộc sống chất lượng kém, mà chính là không nhìn thấy tương lai”. Một bà già 60 tuổi mà xông vào một vùng đất hoang vu như thế để dạy lũ trẻ con suốt ngày nặn những chú ngựa vằn đồ chơi cho trẻ nhỏ cũng có cái sướng riêng của bà… Mỗi người phải tự tìm ra chốn bình yên của mình thôi, đừng để tâm hồn mình bị hỏng thì rất khó chữa trị.
                                                                       Họa sỹ, Nhà phê bình mỹ thuật
                Phan Cẩm Thượng
Nguồn: http://tamnhin.net/cuoc-doi-nhu-giac-mong.html