Màu xanh - Bây giờ...

Lâu lắm, vào những ngày cuối thu năm ấy , có dịp lên núi thăm người bạn đồng hành đang tịnh tu ở gần Hang Mai (Núi Dinh, Bà Rịa), nhưng ở phí trên cao hơn. Lúc ấy, đường đất mòn nhiều trơn trợt khó đi vã lại vì sáng sớm nên muôn lá cỏ rõ ướt sương khuya, phần không quen lối mòn dốc hiểm, khi đến nơi thì nắng đã rót vàng trên lưng núi.
Hành lý mang theo không ngoài túi vải nhỏ, biết rằng sẽ lên cao, đường dốc hiểm, nên chỉ từng bước thong thả như những buổi kinh hành thường lệ, thoảng nghe xa từ những phía lưng núi tiếng chuông trì kinh vang ra nơi có những am tranh khép mình dưới rặng cây, gợi lên một cảm giác thanh thoát cho lòng dặm khách đăng sơn, vừa báo thức cho một ngày đang đến giữa khoảng không gian u tịch nầy.
Nhớ những năm tháng trước đây, phong cảnh núi rừng còn dáng vẻ trầm hùng lắm, tuy đường khó đi bởi hoang vu rậm rạp của cỏ và dây leo chằng chịt. Nhưng nhìn chung thì lúc ấy vẫn còn toát ra ít nhiều vẻ hùng khí thâm u tịch lặng giữa đất trời. Mặc dù nơi đây cũng đã trải qua bao năm tháng chiến tranh tàn phá đốt cháy, nhưng núi rừng trơ gan cùng tuế nguyệt, có những quả bom khổng lồ nổ tung thành những hố sâu hõm, vô tình tạo thêm nét bí hiểm cho cảnh núi rừng, những cổ thụ vững vàng xanh tán rộng nay đã bị những mảnh đạn bom cắt xén, khuấy sâu dị dạng nhưng vẫn trụ hình như thể hiện sự hy sinh, chịu đựng nỗi đau thương đầy bi tráng của loài thực vật đã trải màu xanh ngàn năm cho cuộc sống, còn hơn thế nữa nay đã bị những nhát búa, lưỡi cưa thèm khát ác nghiệt của con người, như cướp đi thêm phần hơi thở, thịt da của núi rừng thuở ấy!
Ngồi nghĩ chân giải mệt bên chòm đá to gần nhóm cây tỏa rộng, thoảng nghe hương cỏ hương rừng man mác theo gió luồn xa, mây trắng nổi trên cây, chim hót vọng lưng đèo, cảnh trí hữu tình, giây phút thân tâm như chìm vào tĩnh lặng, rồi nhớ đến lời kinh của Phật:
"Với tâm điều phục tâm
Một mình vui thích rừng"
Phật Tự Thuyết 191 - (Ud.41).
Tự ngàn xưa, chư Tôn giả thánh đệ tử của Phật đã tìm được "lõi cây" rồi mang từ rừng về dâng lên Phật, Phật hoan hỷ im lặng khi thấy biết vị đệ tử nay có được "lõi cây..."
Đã có biết bao cuộc tìm kiếm của những người con Phật từ trước và bây giờ, vẫn phải dong ruổi về mọi phía phương trời, lao xao khắp miền trú ẩn, trang bị cho tự thân không biết bao nhiêu phương tiện ra khơi, cuộc mưu cầu của hướng tâm vô định, đuổi theo những áng mây kỳ cùng ảo hóa, thế nhưng ai có biết đâu rằng:
"Rừng dục được sanh lên
Chính do sự cộng trú
Rừng dục được chặt đứt
Chính nhờ không cộng trú"
Phật Tự Thuyết 391.Tik III.9.
Sự cộng trú của ta đối với các pháp, ta có mặt, ta chấp nhận các pháp, ta lang thang và hoang phí triền miên cùng với các pháp, thì biết bao giờ và cho đến bao giờ mới có "lõi cây" được mang về trên tay!
Thiết nghĩ: Chư Tôn giả xưa và nay một khi đã vào rừng thì đâu chỉ để lắng nghe hay cảm thức đơn thuần giữa cảnh trí thiên nhiên với đá với cây với muôn hoa lá cỏ với gió rừng xa với tiếng chim thanh thoát theo những sớm chiều... Mà còn phải biết lắng nghe từng sát na dòng chảy của tâm tư, phải quán chiếu như thật để thấy những vết trầm luân đã khắc mòn vào ký ức đã từ bao kiếp xa mờ hoen gió bụi. Đâu một hình ảnh của Tôn giả USABHA khi ngồi lặng nhìn từng giọt mưa rửa bụi sáng cây rừng, đâu một Ngài EKUDDANIYA đã trầm  mặc vô động giữa rừng sâu tĩnh mịch. Và còn nhiều Tôn giả Thánh đệ tử khác nữa của Phật đã thật sự chói sáng với "Tăng thượng tâm ẩn sĩ." Nếu với thân và tâm gầy guộc, không đủ nguồn sinh lực Bi Trí thì dù có bươn bã, biết bao giờ mới tới, nhưng nếu dừng lại mọi duyên thì mọi việc tất sẽ xong.
Một thoáng dừng chân, một thoáng suy tư, chợt thấy nắng đã vàng lên xuyên qua từng tán lá, rẽ hướng về Hang Mai, đường càng quanh co và hẹp hơn lại chia thêm nhiều lối rẽ nhỏ khác nữa, dọc lưng đèo có nhiều hoa cỏ và hoa dây leo ánh lên những sắc màu hương lồng theo gió mới, điểm vào không gian có những cánh bướm vờn quanh về bên những đóa hoa vàng lung linh trong sắc nắng mỏng manh. Thỉnh thoảng có người từ phía trên đi xuống, trông họ khỏe lắm, nhưng cũng không kém phần vội vã lo toan bởi một công việc gì đó trong cuộc đời thường cơm áo. Còn tôi đi lên dốc nên thấy mệt người hơn, cố giữ thanh thản tâm tư để thưởng thức cảnh núi rừng và để quên đi phần mệt mỏi, đó cũng là phương pháp điều thân, điều tâm trong mọi sinh hoạt theo lời Phật dạy:
"Bước những bước thăng bằng
Trên đường không thăng bằng"
Tương Ưng 24S.17.

Thật ra, đường lên núi thì có bao giờ thăng bằng bao giờ đâu, khi lên, khi xuống, khi trơn trợt lúc quanh co nhiều truông hiểm, ngay cả những con đường bằng phẳng rộng rãi dễ đi, thế mà cũng không ít người vẫn phải bước không thăng bằng kia nữa!
Như đã từ xa xưa cho đến nay, đã có rất nhiều con đường vào đời cho mình một cuộc sống, có những con đường rẽ về muôn ngả, thênh thang thoáng đản, có khi cũng lắm khúc nẻo quanh co, hiểm nguy và hơn thế nữa!. Biết bao người bị thất bại khổ đau để tìm cho mình một con đường, một cuộc sống phải trả giá bằng máu và nước mắt, công sức và đấu tranh buồn vui và gay gắt... 
Để tìm cho một lẽ sống, một con đường mà từng kiếp người, từng đoàn người đã và đang đi qua mong đem lại sự an bình, hạnh phúc, phồn vinh về cả mặt ý thức và siêu hóa tâm linh. Những dấu chân đi qua ấy, những con người ấy đã thật sự đúc kết một quá trình bằng một trí năng kỳ tuyệt, bằng trái tim quảng đại bao dung, không có biên cương giới tuyến của trái tim. Vì ở đấy đã thật sự thành tựu vô lượng hào quang kỳ diệu, luôn bình thản, hiểu biết và yêu thương trên mọi bước đi trong cuộc sống. Nên trước đây và ngay bây giờ, những người ấy vẫn  từng bước thăng bằng trên con đường không thăng bằng.
Am tranh đã hiện rõ dần từ xa, thêm một lần hội ngộ an lạc trong chánh niệm, bữa cơm trưa nay với nước tương kho tiêu, tô canh cải trời trông đơn sơ đạm bạc, nhưng không kém phần thi vị hòa vào không gian tịch lặng như thêm chút gì của cảm thọ thiền tư, thiền duyệt.
Đêm nay, ánh trăng rót vàng ngoài hiên am, đối bóng cùng trăng nghe thoảng chút hương đêm và gió ngàn bạt đỉnh, một cảm giác an tịnh lạc khởi lên làm thanh thản tâm tư đủ làm quên xa những điều ước vọng mơ hồ, như sau cơn mưa làm lắng đi bao lớp bụi mờ lãng đãng. Nếu như có sự "cộng trú" thì sẽ thêm bao vết trầm luân trong cõi tử sinh, còn ý thức chấm dứt với mọi " cộng trú" thì sẽ được ung dung tiêu sái và thênh thang trong cõi vô cùng. Giờ đã nửa đêm rồi, mỗi người về yên giấc nơi am vắng, nghe bốn bề im ắng như hút tâm hồn vào cả rừng sâu.
Đường lên núi bây giờ được mở rộng hơn xưa, đá xây từng bậc thẳng tắp, có thành lan can để nghĩ chân, có thêm nhiều cốc am và nhà dân cư, lại được xây dựng  một Nhà Truyền Thống của Tỉnh, một Bia Tưởng Niệm của Thành Đoàn, nên cảnh sinh hoạt bây giờ có phần nhộn nhịp hơn. Thế nhưng, vẫn cảm nghe trong tôi trống vắng đi chút gì đó sâu xa nơi tâm tưởng.
Từng đoàn, từng lượt người hành hương về núi rừng, phải đâu chỉ để lễ bái, cấm trại ca hát vui chơi dã ngoại.v.v... Theo tôi thấy rằng : núi rừng vẫn kiên trụ với thời gian như sức mạnh hùng tráng cao thượng, những cổ thụ  vững vàng xanh mình che tán rộng như yêu thương và bao dung của sự tỏa mát đã có từ bao thế kỷ, như những lớp người đi qua và đã làm nên những dấu son kỳ tích cho con người, cho cuộc đời, cho đất nước quê hương và cho cả ngàn sau. Sự thâm u bí hiểm của một thời, bây giờ trông đã nhạt nhòa bởi cảnh sắc đơn sơ với những cây chồi còn yếu kém, dòng suối đã bị vẩn dục và cạn dần đi, những danh mộc xưa, nay đã nhường lại chổ đứng cho những loại như : Xà Cừ, Tràm, Gáo, Bạch Đàn và các loại cây tạp khác... Nghĩ mà chạnh lòng cho cái cảnh "Cây tạp thay rừng quí, cổ thụ khuất trời sương, rót một dòng kim cổ, ngàn năm nghiêng lối buồn!"
Sau hơn mười năm chia tay, người ở lại một phương, còn ta thì áo vá trời mây, đối bóng với ngọn dầu khuya, rót tâm tư vào đời viễn mộng, nay gặp lại nhau, trông mái đầu đã mấy lượt chở bóng thời gian, nhưng vẫn như hôm nào với:
"Tâm tăng thượng ẩn sĩ
Thường nắm giữ chánh niệm"
Trưởng Lão Tăng Kệ (68-80).
Xuống và ra khỏi chân núi, ngồi bên quán cốc dưới hiên mây nghe tách trà thoảng chút hương sen cùng hoài niệm chút hương rừng năm cũ, trông lên thấy cảnh núi rừng vẫn xanh tỏa một góc trời nhưng màu xanh bây giờ không phải là màu xanh của những danh mộc của ngày xưa xa, mà là thay vào đấy là những loài tạp mộc đó thôi!

Núi Dinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, 09.2012
MẶC PHƯƠNG TỬ
NHẸ KHÉP CỔNG SÀI

Mặc Không Tử



Trời đã về khuya, Nguyên lầm lũi ven theo triền núi dẫn đến Thiền Duyệt cốc, sương đêm ướt đẫm đôi vai gầy, buốt lạnh. Qua bao ngày trèo đồi lội suối, đôi giày đã rách nát vì cỏ gai và đá sỏi, chiếc áo bạc màu phong phanh đón gió, tay nãi chỉ vỏn vẹn một bộ đồ, y, bát, tọa cụ và chút lương khô. Khi vừa đến nơi, trăng thu vằng vặc, tỏa sáng lung linh cả núi rừng. Bước vào am tranh, bên ngọn đèn dầu leo lét, vị sư già đang thiền tọa, Nguyên ngồi xuống một bên, chờ đợi…

Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc. Bên ngoài chim chóc líu lo, ánh dương đã ló dạng. Giờ này Nguyên mới có cơ hội nhìn kĩ vị sư già - thân như lão hạc sống giữa núi rừng cô tịch, hàng chân mày bạc trắng với đôi mắt sáng như nhìn thấu tâm can của người đối diện, nơi Ngài toát ra một sự bình an, yên ổn lạ kỳ. Trước khi lên đây, Nguyên đã chuẩn bị trong đầu rất nhiều câu hỏi để tham vấn vị ẩn sĩ nổi danh tài hoa và làu thông Tam tạng Thánh điển. Với mớ ngôn từ, khái niệm mà Nguyên thu thập được ở ghế học đường cũng như qua thời gian tự tìm tòi nghiên cứu không giúp Nguyên giải quyết được những khổ đau của chính mình. Nó bức bách, đẩy Nguyên đến bờ tri kiến loạn. Thế nhưng, giờ đây đầu óc Nguyên trống rỗng, gần nửa đời người “gã cùng tử” mới nếm được vị ngọt của sự xả ly. Vị sư già mỉm cười nhìn Nguyên, cái nhìn bao dung, độ lượng đối với “gã cùng tử” đã biết quay về với chính mình.
Đã sáu ngày trôi qua, Nguyên thầm lặng làm những công việc của một người thị giả như nấu cơm, gánh nước, bửa củi, pha trà… và vị sư già cũng mặc nhiên với công việc hàng ngày của Nguyên. Đến sáng ngày thứ bảy, sau khi Nguyên pha trà và đứng hầu một bên, vị sư già mới lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng suốt tuần qua.
- Con đã ở đây được một tuần?
- Dạ.
- Con đã làm tròn nhiệm vụ của một thiền sinh.
- Dạ, bạch thầy! Thời gian qua con đã tìm lại được chính con. Tâm con thật an lạc, thảnh thơi với công việc khi con làm chúng trong chánh niệm, tỉnh giác. Ngày ngày, con được ngắm mây trời lãng đãng, được nghe chim hót, nghe nhạc rừng lao xao, nghe tiếng suối róc rách chảy… lòng con đã lặng yên trần cấu. Con muốn ở lại đây với thầy.
- Ta biết. Tháng ngày ruổi rong ở chốn thị thành, con đã chịu quá nhiều áp lực, quẫn bách, khổ đau. Con hãy ghi nhớ một điều, khi con đau khổ, con không nên khỏa lấp hay trốn tránh và cũng không nên tìm cách đè nén, vì đè nén chỉ là giải pháp bề mặt; cũng giống như lấy đá đè cỏ, một khi lấy đá ra khỏi thì cỏ vẫn mọc trở lại. Những lúc ấy, con hãy ngồi yên, nhìn sâu vào nỗi khổ đau đang hiện hữu trong con. Khi tập trung quán xét, con sẽ tìm ra được căn nguyên của sự thống khổ mà con phải chịu đựng, nhận chân được bản chất của cảm thọ là vô thường, duyên sinh, vô ngã, nó đến rồi đi. Con đừng vướng mắc, đeo chặt, đồng hóa cảm thọ với con để rồi phải chịu khổ đau. Con cũng không phải mệt nhọc chạy tìm hạnh phúc ở đâu xa. Hạnh phúc chân thật ở nơi chính tự tâm của con, ở cách con đón nhận sự việc với một tri kiến như thật, như nó đang là.
Vị sư già ngừng nói, nhấp một ngụm trà, hình như Ngài muốn tạo một khoảng lặng cho người học trò. Lúc này, gương mặt Nguyên rạng ngời, lời pháp nhũ như thấm trong từng làn da, thớ thịt. Ngài nhìn Nguyên mỉm cười, rồi lại tiếp tục:
- Cách đây hơn ba mươi năm, ta cũng đã từng bất mãn, khổ đau, thao thức như con hôm nay. Có lẽ môi trường học đường đã nhồi nhét cho con quá nhiều ngôn từ, khái niệm nên con cảm thấy chán chường, mệt mỏi; song, giáo dục học đường không có lỗi gì cả. Những bài giáo lý, những lời giảng của vị thầy đứng lớp, con hãy xem nó như ngón tay để chỉ mặt trăng, đừng lầm phương tiện là cứu cánh, con phải áp dụng nó ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nên nhớ rằng, học kinh là con đang làm một hành giả, từng bước đoạn trừ phiền não khổ đau, chứ không phải là để trở thành một học giả, một nhà nghiên cứu lý luận Phật học. Như vậy, con mới có được sự an ổn của nội tâm, và khi đó con có thể hiến tặng chất liệu an lạc, thảnh thơi cho những người xung quanh. Thôi, ta chỉ có bấy nhiêu lời dặn dò con. Con còn trẻ, con hãy trở lại với học đường, trở lại với cuộc đời. Nơi ấy cần cho con.
Nói xong, vị sư già đi vào bên trong, bỏ mặc Nguyên đứng đó với đôi mắt xa xăm, vầng trán cao thoáng hiện những gợn sóng suy tư. Một lúc sau, Ngài trở ra với cuộn giấy tròn trên tay.
-Ta cho con món quà này, ngay sáng hôm nay con phải xuống núi để tiếp tục khóa học.
- Dạ, bạch thầy!…
Nguyên định nói một điều gì đó, nhưng Ngài khoát tay, chừng như Ngài đã hiểu Nguyên muốn nói gì. Mặc dù chưa hiểu được thâm ý của vị ẩn sĩ, nhưng Nguyên biết cuộn giấy này đối với Nguyên rất quan trọng. Nó sẽ chi phối, quyết định quãng đường còn lại của Nguyên. Nguyên đón nhận với lòng thành kính, tri ân, đảnh lễ vị sư già rồi ra đi.

***

Ra khỏi Thiền Duyệt cốc, sự thôi thúc từ sâu thẳm của cõi lòng buộc Nguyên phải ngoảnh lại nhìn cổng sài. Hai câu đối với nét chữ uyển chuyển, nhẹ nhàng, tiêu sái mà trĩu nặng bước chân đi:
Ngõ Trúc sương len hồn Trí giả
Cửa Không mây níu áo Hiền nhân
Băng qua những lùm cây chằng chịt dây leo và cỏ dại, đến một con suối chảy róc rách, Nguyên ngồi lại nghỉ chân, cuộn giấy tròn trên tay, lời giáo huấn với dòng chữ chưa khô:
Như cô hạc ngàn năm suối trong không tìm lại
Như hoa nở một lần thiên thu là hiện tại.

***


Nguyên lặng lẽ xuống núi.

Mặc Phương Tử